Thứ Bảy, 23 tháng 2, 2013

0 Quá trình phát triển của răng ở trẻ em


Nhiều phụ huynh thường nghĩ rằng răng sữa không quan trọng, vì dù sao nó cũng sẽ được thay thế bởi răng vĩnh viễn sau này. Suy nghĩ này là không đúng và đã dẫn tới những hệ lụy không đáng có sau này.

  
Quá trình phát triển của răng ở trẻ em

Giai đoạn răng sữa kéo dài từ khi trẻ mọc răng sữa đầu tiên cho đến 5 tuổi.

Những chiếc răng đầu tiên xuất hiện khi bé 6 tháng tuổi và sẽ mọc đủ 20 chiếc trong vòng 18 tháng sau đó.

Các răng này sẽ lung lay và được nhổ trong độ tuổi từ 7 đến 12 và được thay thế bằng răng vĩnh viễn.
 
Ngoài 20 răng vĩnh viễn thay thế răng sữa, 12 răng mới sẽ mọc lên và những mầm răng đầu tiên của nhóm này sẽ xuất hiện khi trẻ 6 tuổi và được gọi là răng hàm vĩnh viễn đầu tiên. Đây là những chiếc răng rất quan trọng. Tất cả các răng vĩnh viễn sẽ mọc xong ở tuổi 14, ngoại trừ các răng khôn (thường mọc ở khoảng 17 - 25 tuổi).

Như vậy, ở độ tuổi từ 6 - 12 tuổi, một đứa trẻ sẽ có cả răng sữa và răng vĩnh viễn. Đây được gọi là giai đoạn hỗn hợp.

Mối liên hệ chặt chẽ giữa răng sữa và răng vĩnh viễn

Nhiều phụ huynh cho rằng những chiếc răng sữa sâu không cần phải điều trị vì rồi nó sẽ rụng và thay thế bởi một răng mới. Nhưng đó thực sự là một hiểu lầm tai hại!

Thông thường các răng vĩnh viễn sẽ mọc ở ngay vị trí răng sữa vừa rụng. Với áp lực từ răng vĩnh viễn, chân răng sữa sẽ bị tiêu đi và rụng, nhường chỗ cho răng vĩnh viễn. Tuy nhiên, nếu các răng vĩnh viễn ở vị trí quá xa, nó sẽ mọc lên mà không cần răng sữa phải rụng đã. Vậy là dẫn tới hiện tượng răng mới mọc phía sau hoặc bên cạnh răng cũ. Nếu được điều chỉnh kịp thời (loại bỏ răng sữa), răng vĩnh viễn sẽ về đúng vị trí.

Tuy nhiên, với trường hợp thiếu răng sữa bẩm sinh, sâu răng, sún răng hay mất răng sớm do chấn thương…, răng sữa khác hoặc răng vĩnh viễn sẽ di chuyển vào vị trí mất răng, làm răng vĩnh viễn bên dưới không có đủ chỗ để mọc, gây ra răng ngầm, mọc kẹt hoặc răng chen chúc.

Trước đó, tình trạng sâu răng, sún răng nếu không được điều trị sẽ gây đau nhức làm cho trẻ không ăn được, từ đó dẫn tới biếng ăn, thiếu chất ảnh hưởng đến sự phát triển của trẻ. Và về lâu dài, sẽ gây ra những dị tật, ảnh hưởng đến thẩm mỹ và sức khỏe toàn cơ thể.

Vì thế, ngoài việc đưa trẻ đi khám răng miệng định kỳ, chú ý vệ sinh răng miệng, điều trị răng sâu ngay thì cần thông báo với bác sĩ về các tai nạn hay chấn thương ảnh hưởng đến răng miệng, dù rất nhẹ, ở trẻ.. Đây là một tiền sử rất quan trọng để chẩn đoán răng vĩnh viễn mọc kẹt hoặc dị dạng do chấn thương của răng sữa.

0 5 QUAN NIỆM SAI LẦM VỀ RĂNG SỮA

5 QUAN NIỆM SAI LẦM VỀ RĂNG SỮA
Một số bậc cha mẹ cho rằng không cần phải chữa răng sữa vì sớm hay muộn nó cũng sẽ rụng. Liệu quan niệm như vậy có đúng không? Bác sĩ nha khoa Valentina Elizarova sẽ cho chúng ta biết cần phải chăm sóc răng sữa ra sao.

1.      Trẻ em không cần đánh răng vì răng chúng thưa và thức ăn không giắt vào răng.
Răng của trẻ em thưa khi số lượng răng còn ít. Nhưng đến 2 tuổi rưỡi, trẻ đã mọc đủ 20 cái và răng đã khít vào nhau. Răng càng khít bao nhiêu thì càng có nguy cơ bị sâu bấy nhiêu. Bởi vậy cần phải dạy trẻ đánh răng từ khi chúng 2 tuổi. Không cần phải chải răng cho trẻ bằng bông gòn khi chúng mới 1 tuổi như một số bà mẹ vẫn làm và cũng không nên trì hoãn việc cho trẻ làm quen với bàn chải đến tận 4-5 tuổi. Hãy để cho chúng tập bắt chước theo cha mẹ.

2.      Thuốc đánh răng có thể gây hại cho trẻ bởi vì đôi lúc chúng nuốt thuốc chứ không nhổ ra.
Ban đầu cần cho trẻ làm quen với thuốc đánh răng trẻ em. Nếu thậm chí trẻ nuốt một chút thuốc cũng không có gì đáng sợ cả - các nhà sản xuất kem đánh răng đã tính đến điều đó. Trước khi kem đánh răng trẻ em được cấp chứng chỉ và giấy phép bán trên thị trường, nó đã trải qua những nghiên cứu khác nhau, trong đó có cả vấn đề trẻ có thể nuốt kem đánh răng vào bụng.

3.      Cần gì phải hàn răng sữa, đằng nào chúng cũng rụng.
Nhất thiết phải chữa trị răng sữa. Thứ nhất là vì lợi ích của răng vĩnh viễn. Chân của răng sữa rộng và bao trùm mầm răng vĩnh viễn. Tất cả những gì xảy ra với răng sữa sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của răng vĩnh viễn. Nếu không chữa khỏi những chỗ sâu răng có thể sẽ bị viêm nướu, trong đó có các dây thần kinh, sau đó là viêm các mô gần răng. Các mầm của răng vĩnh viễn có thể chết. Răng sữa hỏng rất nhanh, đôi khi chỉ trong vòng vài tuần. Thứ hai, những răng không chữa khỏi là những ổ bệnh thường xuyên gây viêm trong khoang miệng.

4.      Răng ở trẻ em không đau bởi vì trong răng sữa không có dây thần kinh.
Trong răng sữa cũng có dây thần kinh. Răng sữa cũng đau nhưng ở một số trẻ chúng bị hỏng rất nhanh nên cảm giác đau không kịp xuất hiện.

5.      Chỉ khi răng vĩnh viễn mọc lộn xộn mới cần đến bác sĩ chỉnh hình, còn răng sữa thì không.
Hiện nay có đến 60% trẻ em cần chỉnh răng ở những mức độ khác nhau. Đa số có hàm hẹp. Trẻ nhỏ chỉ có 20 răng, còn răng vĩnh viễn là 28 hoặc 32, răng mọc lại cũng lớn hơn, rộng hơn. Nghĩa là hàm phải phát triển cả về chiều rộng và chiều cao. Đến 4 tuổi ở trẻ phải hình thành khoảng trống giữa các răng. Tuy nhiên, không phải trẻ nào cũng được như vậy. Đó là do trẻ không được luyện hàm: không nhai thịt mà ăn thịt bănm nhiều hơn, không phải gặm những hoa quả cứng. Cha mẹ thường cho trẻ ăn các thức ăn mềm, thức ăn nghiền quá lâu. Bác sĩ chỉnh hình nhất thiết phải xem xét xem hàm của trẻ phát triển thế nào, răng mọc có sít quá không. Cũng có khi trẻ có răng mọc thưa quá, đôi khi có hiện tượng thừa răng. Cho nên vẫn cần đến bác sĩ chỉnh răng. Dù răng của con bạn mọc bình thường hay có vấn đề thì mỗi năm vẫn cần cho trẻ đến bác sĩ nha khoa 2 lần.

0 Chữa tủy răng


Chữa tủy răng thường bị gọi một cách nôm na là lấy tủy là một chuyên ngành lớn trong Nha khoa vì nếu muốn làm tốt thì cần nhiều trang thiết bị tối tân và Bác sĩ có chuyên môn sâu

Chữa tủy răng (trong chuyên môn gọi là điều trị nội nha- Endodontic treatment) thường bị gọi một cách nôm na là lấy tủy(cách gọi này không chính xác vì có thể dẫn đến sai lầm trong nhận thức và điều trị) là một chuyên ngành lớn trong Nha khoa vì nếu muốn làm tốt thì cần nhiều trang thiết bị tối tân và Bác sĩ có chuyên môn sâu. 

Một răng cối có tủy bị chết, gây sang thương quanh chóp.

Răng được chỉ định điều trị nội nha khi nó đã bị tổn thương (thường do sâu răng, chấn thương, viêm nha chu..) đã lan đến tủy, làm tủy bị viêm không hồi phục, tủy chết, tủy thối…). Có khi một răng tủy còn sống nhưng vẫn được điều trị nội nha do những yêu cầu của phục hình.

Việc điều trị nội nha thông thường bao gồm các giai đoạn như gây tê, mở tủy, làm sạch và tạo hình ống tủy, bít các ống tủy và cuối cùng là trám kết thúc.

Một răng cối sau khi đã được trám bít các ống tủy

Đây là một công việc đòi hỏi sự tỉ mỉ, kiên trì của BS rất cao. Đối với răng một chân (ví dụ như răng cửa) thì hệ thống ống tủy tương đối đơn giản, còn với răng nhiều chân (ví dụ răng cối) thì khó hơn vì chúng nhiều khi có hệ thống ống tủy khá phức tạp.

Hệ thống các ống tủy trong một răng cối

Vì thế, để có thể điều trị nội nha tốt cần có các BS được đào tạo chuyên sâu và nhiều máy móc tối tân để hỗ trợ cho công việc. 

Một thiết bị không thể thiếu trong điều trị nội nha hiện đại là máy X quang kỹ thuật số, nó giúp BS có thể chụp những bức ảnh X quang chất lượng cao, nhanh chóng và giảm lượng tia X xuống đến mức tối thiểu

Cao cấp hơn, BS có thể dùng máy CT Cone beam để quan sát những cấu trúc răng trong không gian 3 chiều

Cấu trúc của răng và hệ thống ống tủy được quan sát dưới CT cone beam.

Trong điều trị, những máy định vị chóp giúp BS có thể xác định vị trí của chóp răng một cách chính xác, giảm thiểu tình trạng vật liệu trám bít bị thiếu hay thừa ở vùng chóp. 

Máy định vị chóp điện tử

Tại Elite, ngoài các phương tiện chẩn đoán, phòng khám còn trang bị hệ thống sửa soạn ống tủy X Smart. Đây là hệ thống sử dụng các dụng cụ quay bằng Ni-Ti có độ uốn cao, giúp BS có thể điều trị những hệ thống ống tủy cong, phức tạp với thời gian ít nhất.

0 Cách xử lý răng rụng an toàn nhất khi bé thay răng

Cách xử lý răng rụng an toàn nhất khi bé thay răng
Khoảng 6 tuổi trở đi, các răng cửa trước của trẻ thường bắt đầu bị lung lay và rụng.
Các răng sữa sẽ tiếp tục nới lỏng và rụng ra cho đến khi trẻ 10-12 tuổi thì quá trình thay răng ở trẻ mới bắt đầu hoàn thiện.
Thời gian trẻ bị rụng răng
Rụng răng là một hiện phổ biến trong cuộc sống của hầu hết những đứa trẻ trong độ tuổi từ 6-12 tuổi. Theo Viện nhi khoa Hoa Kỳ thì một đứa trẻ thường bị lung lay răng theo thứ tự răng đã nhổ.
Khoảng 6 tuổi trở đi, các răng cửa trước của trẻ thường bắt đầu bị lung lay và rụng. Các răng sữa sẽ tiếp tục nới lỏng và rụng ra cho đến khi trẻ 10-12 tuổi thì quá trình thay răng ở trẻ mới bắt đầu hoàn thiện.
Khoảng 6 tuổi trở đi, các răng cửa trước của trẻ thường bắt đầu bị lung lay và rụng. Các răng sữa sẽ tiếp tục nới lỏng và rụng ra cho đến khi trẻ 10-12 tuổi thì quá trình thay răng ở trẻ mới bắt đầu hoàn thiện.
Xử lý răng rụng an toàn nhất cho trẻ khi trẻ thay răng?
- Cách an toàn nhất và ít gây chấn thương tâm lý nhất cho trẻ là bạn nên loại bỏ một răng sắp rụng cho con một cách nhẹ nhàng bằng cách lung lay nó với ngón tay hoặc hướng dẫn trẻ tự sử dụng đầu lưỡi để đưa đẩy và đùn răng.
- Khi răng trẻ có hiện tượng sắp rụng, nó sẽ dễ dàng bị nhấc ra khỏi miệng trẻ chỉ với ít máu hoặc thậm chí không bị chảy máu hoặc không gây đau đớn cho trẻ.
Khi răng trẻ có hiện tượng sắp rụng, nó sẽ dễ dàng bị nhấc ra khỏi miệng trẻ chỉ với ít máu hoặc thậm chí không bị chảy máu hoặc không gây đau đớn cho trẻ.
- Nếu răng của con bạn đã rất lỏng lẻo và con bạn muốn bạn loại bỏ giúp thì bạn hãy sử dụng một miếng gạc sạch và nhanh chóng xoay nó để loại bỏ răng một cách dễ dàng và nhanh chóng nhất.
- Nếu khi xem xét răng miệng cho con, bạn thấy một chiếc răng đã bắt đầu lung lay nhưng chưa nới lỏng đủ để nhổ thì bạn có thể đưa con đến nha sĩ loại bỏ chiếc răng đấy nếu thấy cần thiết.
Cách an toàn nhất và ít gây chấn thương tâm lý nhất cho trẻ là bạn nên loại bỏ một răng sắp rụng cho con một cách nhẹ nhàng bằng cách lung lay nó với ngón tay hoặc hướng dẫn trẻ tự sử dụng đầu lưỡi để đưa đẩy và đùn răng.
Xử lý khi răng rụng do chấn thương
- Một chiếc răng của trẻ cũng có thể bị lung lay sau một tai nạn hoặc thương tích nhẹ nào đó. Trong một số trường hợp, các nha sĩ có thể đặt lại vị trí và ổn định răng cho trẻ.
- Nếu bạn nhận thấy con bạn có một chiếc răng lỏng lẻo sau khi bị một chấn thương miệng thì nên cho con đến nha sĩ để được giúp đỡ. Tất nhiên khi rụng răng quá sớm, nó có thể làm cho răng vĩnh viễn của trẻ mọc khấp khểnh.
Một số trẻ bị mất răng muộn hơn so với chúng bạn nhưng hầu hết hiện tượng này không phải là một vấn đề bất thường.
Lưu ý
Một số trẻ bị mất răng muộn hơn so với chúng bạn nhưng hầu hết hiện tượng này không phải là một vấn đề bất thường. Tuy nhiên, nếu con bạn bị mất răng lần lượt trước khi 4 tuổi thì đó tiềm ẩn những vấn đề có thể đổ lỗi.
Khi một đứa trẻ bị rụng răng quá sớm hoặc quá muộn, bạn nên tham khảo ý kiến nha sĩ để loại trừ vấn đề bệnh tật nghiêm trọng cho răng miệng của trẻ.
Nếu bạn nhận thấy con bạn có một chiếc răng lỏng lẻo sau khi bị một chấn thương miệng thì nên cho con đến nha sĩ để được giúp đỡ. Tất nhiên khi rụng răng quá sớm, nó có thể làm cho răng vĩnh viễn của trẻ mọc khấp khểnh.
Cảnh báo
Nếu bạn quyết định tự nhổ răng cho con bạn thì hãy chờ cho đến khi những chiếc răng sắp rụng này khá lỏng lẻo nhé. Vì nếu kéo đẩy hoặc nhổ một chiếc răng quá sớm có thể dẫn đến nhiễm trùng.

0 Sâu răng sữa ở bé, không phải chuyện nhỏ


Răng sữa chính là nhân tố kích thích sự tăng trưởng của xương hàm nhờ vào cử động nhai, sự hợp lý của cung răng. Răng sữa còn giữ chỗ và định hướng cho răng vĩnh viễn mọc đúng vị trí. Răng sữa giúp cho bé phát âm được chuẩn hơn. Răng sữa khỏe mạnh sẽ cho bé khuôn mặt xinh tươi và nụ cười rạng rỡ.
Răng sữa có vai trò quan trọng không kém răng vĩnh viễn như cắn (xé, nhai, nghiền nát thức ăn), giúp việc tiêu hóa thức ăn của bé được dễ dàng. Điều này đồng nghĩa, chất lượng răng sữa ảnh hưởng đến sức khỏe của bé.

Nguyên nhân sâu răng sữa

Mức độ canxi hóa của răng chưa hoàn thiện, lớp men răng sữa còn mỏng nên dễ bị vi khuẩn tấn công. Những thai phụ có chế độ ăn uống thiếu canxi thì men răng của bé cũng dễ bị yếu, gia tăng nguy cơ sâu răng sữa. Mặt khác, nếu bé sử dụng quá nhiều đồ ngọt như các loại bánh kẹo, chất đường sẽ bám vào bề mặt răng, hình thành mảng bám, vi khuẩn phát triển tạo ra các axit phá hủy men răng, gây sâu răng. Cha mẹ không biết cách chăm sóc răng cho bé như sau khi ăn uống không cho uống nước, chải răng không đúng cách, bé bú bình… cũng làm gia tăng tình trạng sâu răng sữa.
Sâu răng sữa ở bé, không phải chuyện nhỏ - Chăm sóc bé - Cách nuôi dạy con trẻ - Cẩm nang chăm sóc trẻ - Chăm sóc trẻ em - Làm cha mẹ
Phát hiện kịp thời và cho bé đi khám chữa răng
Nhiều cha mẹ cho rằng, bé bị sâu răng sữa không có gì nghiêm trọng vì sớm muộn gì răng sữa cũng sẽ được thay thế bằng răng vĩnh viễn. Điều này không hoàn toàn đúng, vì sâu răng sữa gây rất nhiều tác hại, ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự phát triển của bé. Tùy mức độ tổn thương mà sâu răng sữa ảnh hưởng đến sức khỏe và hiệu quả điều trị. Vì răng sữa cũng có tác dụng nhai thức ăn như răng vĩnh viễn nên khi răng sữa bị rụng sớm, khả năng nghiền nát thức ăn bị hạn chế, khiến tiêu hóa của bé kém. Nếu răng sữa bị sâu và rụng quá sớm thì răng vĩnh viễn của bé có thể bị mọc lệch.

Cách phòng tránh sâu răng sữa

- Giống như người lớn, răng sữa của bé cũng có hàng nghìn loại vi khuẩn cư trú tạo thành mảng bám. Vì vậy, cha mẹ nên biết cách chăm sóc để tránh sâu răng sữa cho bé ngay từ sớm, thậm chí ngay cả trong giai đoạn mang thai. Các thai phụ, sản phụ không được dùng kháng sinh tetracyclin, doxycyclin; nên sử dụng những loại đồ ăn có nhiều canxi lợi cho men răng của bé sau này, như các loại cua, cá, sò, ốc, tôm…
- Chăm sóc vệ sinh răng miệng đúng cách. Ngay khi bé mới mọc răng sữa, nên vệ sinh răng miệng cho bé hàng ngày bằng gạc sạch nhúng vào nước muối ấm. Chú ý, không nên pha nước muối quá mặn vì điều này dễ phá hủy men răng của bé. Sau khi bé ăn, bú xong nên cho bé uống nước. Bé lớn phải đánh răng trước khi đi ngủ và sau khi ngủ dậy, đánh răng đúng cách, chải tròn, theo chiều dọc của răng. Dùng bàn chải và kem đánh răng phù hợp với bé.
- Cho bé có chế độ ăn giàu canxi, phosphat, giảm bánh kẹo, nước ngọt có gas. Bé còn nhỏ tránh bú bình, ăn vặt buổi tối, trước khi đi ngủ. Cho bé ăn đa dạng: thịt động vật (bò, lợn, gà, tôm, cua, cá…), ăn nhiều hoa quả, các loại rau sẫm màu, củ quả…
- Cho bé đi khám răng định kỳ để phát hiện sâu răng, kịp thời điều trị. Khi bé có biểu hiện bất thường như đau nhức răng, bỏ ăn, quấy khóc khi nhai hoặc phát hiện có dấu hiệu sâu răng thì nên đưa bé đi khám ngay để có biện pháp phù hợp cho từng giai đoạn: bôi gel fluor, hàn lỗ sâu, diệt tủy, nhổ răng…

0 Răng sữa của bé chưa rụng mà răng vĩnh viễn đã mọc rồi, làm sao để răng mọc đúng hàng?


Giai đoạn răng sữa từ 1 – 6 tuổi, bình thường khi đến tuổi thay răng sữa(từ 5 – 6 tuổi) răng sữa lung lay và tự rụng hoặc có cái cũng cần nhổ bỏ, để nhường chỗ cho răng vĩnh viễn mọc lên ngay hàng thẳng lối.
 
Đây là giai đoạn trẻ cảm thấy mình khác hơn các em nhỏ, vì không còn những cái răng bé tí tẹo như các em nhỏ nữa.
 
Răng sữa sau một thời gian lung lay thường sẽ tự rụng, nhưng cũng có nhiều cái răng lung lay mãi mà không chịu rụng hoặc có “cái răng sữa quá cứng đầu”, răng vĩnh viễn mọc lên rồi, nhưng răng sữa không chịu lung lay…Vậy cần giải quyết như thế nào đây?
 
Khi gặp những trường hợp trên, các bà mẹ nên đưa trẻ đến BV hoặc phòng khám Răng Hàm Mặt. BS khám và có hướng giải quyết thích hợp, có thể nhổ ngay hoặc tiếp tục phải chờ hay mài bớt cạnh của răng sữa lân cận để răng vĩnh viễn dễ dàng mọc lên đúng vị trí.
 

Thứ Tư, 20 tháng 2, 2013

0 Muốn răng tốt, phải chăm sóc từ khi mọc răng


Muốn răng tốt, phải chăm sóc từ khi mọc răng

Khi con hỏi: "Tại sao bị sâu răng?" các ông bố bà mẹ thường kể về một con sâu chui vào miệng bẩn để đục răng. Sự giải thích muộn màng này không giúp được gì cho trẻ, bởi ngay từ khi mọc những chiếc răng đầu tiên các cháu đã cần được giáo dục ý thức giữ gìn vệ sinh răng miệng đúng cách.
Trẻ cần được tập thói quen đánh răng sau khi ăn để phòng sâu răng.
Một trong những bệnh hay gặp ở trẻ là bệnh sâu rǎng. Bệnh ảnh hưởng nhiều đến sức nhai, gây ra những nhiễm khuẩn nguy hiểm ảnh hưởng tới các bộ phận khác của cơ thể. Sâu rǎng ở rǎng sữa có thể ảnh hưởng tới mầm rǎng vĩnh viễn. Ngoài ra bệnh còn khiến trẻ đau đớn gây trở ngại trong việc học tập.
Trẻ dễ mắc bệnh về rǎng thường là những trẻ có thói quen ǎn vặt, có cung rǎng không đều (rǎng khấp khểnh), gầy yếu suy dinh dưỡng, trẻ có rãnh mặt nhai sâu, trẻ có thói quen nhai không kỹ, mắc các bệnh viêm nhiễm mãn tính vùng hầu họng. Những trẻ có chế độ ǎn uống kém dinh dưỡng còn thường hay mắc các chứng bệnh về lợi như chảy máu chân rǎng, chảy mủ chân rǎng do viêm lợi, bệnh loét hay nứt góc miệng. Trẻ dùng quá nhiều kháng sinh cũng có thể nhiễm nấm trong miệng, gây sâu răng.
Phòng ngừa
- Tránh cho trẻ ǎn nhiều chất ngọt như (mía, kẹo, bánh, chè, nước ngọt...) vì các chất này sẽ làm cho rǎng chóng hỏng.
- Tập thói quen đánh rǎng kỹ hàng ngày cho trẻ. Đánh răng sau bữa ǎn, sau khi ǎn đồ ngọt ít nhất 2 lần/ngày với bàn chải đúng quy chuẩn và thuốc đánh rǎng có hàm lượng fluor thích hợp là phương cách hiệu quả giúp trẻ tránh bệnh sâu rǎng. Người Việt Nam thường có thói quen đánh rǎng trước khi đi ngủ và khi ngủ dậy, cần giáo dục rộng rãi nhằm thay đổi thói quen này. Nên đánh rǎng cho trẻ ngay từ khi chúng bắt đầu mọc rǎng. Sau này cần dạy trẻ cách đánh rǎng và chú ý xem trẻ đánh rǎng có đúng cách hay không.
Đánh răng đúng cách: Đánh rǎng từ trên xuống dưới theo chiều dọc thân rǎng, không đánh rǎng theo chiều ngang từ bên này sang bên kia. Xoay tròn bàn chải và đánh kỹ tất cả các mặt rǎng, cả trong lẫn ngoài cả trên lẫn dưới.
Với trẻ lớn, ngoài đánh rǎng có thể hướng dẫn thêm cách sử dụng chỉ nha khoa. Đây là cách bảo vệ nướu rǎng tốt nhất và giúp làm vệ sinh kỹ ở mặt gần và mặt xa của từng rǎng.
- Nắm chắc tuổi thay rǎng sữa của trẻ để nhổ rǎng sữa đúng tuổi, tránh mọc lệch lạc rǎng vĩnh viễn. Mỗi rǎng sữa có tuổi thay rǎng khác nhau (ví dụ 6-7 tuổi thay 2 rǎng cửa giữa dưới và 2 rǎng cửa giữa trên). Rǎng sắp thay có dấu hiệu lung lay, lợi xung quanh không sưng nề. Cần chú ý chǎm sóc 2 rǎng số 6 hàm dưới là rǎng vĩnh viễn đầu tiên của trẻ.
- Nếu trong giai đoạn thay rǎng, trẻ bị rǎng khấp khểnh không nên nắn rǎng khi không có chỉ định của các nha sĩ chuyên khoa sâu ở các cơ sở y tế có uy tín.
- Với những rǎng vĩnh viễn có rãnh mặt nhai sâu ở trẻ hay có thói quen ǎn vặt, vệ sinh rǎng miệng kém, nên đưa trẻ đến nha sĩ để phủ một lớp xi mǎng lên rãnh nhai dự phòng sâu rǎng.
- Định kỳ đưa trẻ đến khám rǎng miệng tại những cơ sở y tế tin cậy 6 tháng/lần để các nha sĩ phát hiện sớm và điều trị kịp thời bệnh lý về rǎng miệng.
- Các bà mẹ có thể tự khám rǎng cho con mình khi nhìn thấy trên bề mặt rǎng của trẻ có các dấu hiệu sau: có lỗ, vết đen, dùng que sắc nhọn cạo vào vết đen không thấy hết; ǎn lạnh, ngọt thấy ê buốt thoáng qua. Đây là những dấu hiệu ở giai đoạn sớm nên đưa trẻ đến ngay nha sĩ để điều trị kịp thời.
Điều quan trọng nữa là có chế độ nuôi dưỡng dinh dưỡng hợp lý giúp trẻ có thể lực tốt, điều trị kịp thời các viêm nhiễm mãn tính tại vùng hầu họng cũng góp phần dự phòng các bệnh về rǎng miệng cho trẻ.

0 Cách chăm sóc răng miệng cho trẻ


Cách chăm sóc răng miệng cho trẻ

Vi khuẩn gây bệnh răng miệng lây từ răng này qua răng khác và từ miệng người này qua miệng người khác. Chúng không có trong miệng trẻ sơ sinh. Khi răng bắt đầu mọc, vi khuẩn này được truyền từ mẹ qua việc hôn hít, nếm thức ăn hay mút vú giả trước khi cho trẻ bú.

Việc bà mẹ chải răng thật kỹ, chế độ ăn có lượng đường thấp sẽ làm giảm lượng vi khuẩn sâu răng trong miệng, từ đó làm giảm hay chậm khả năng truyền vi khuẩn sang cho trẻ. Để loại trừ sự lây nhiễm, không nên nhai hay cắn thức ăn rồi đút cho trẻ, không cho trẻ sử dụng chung muỗng, đũa với người bị sâu răng và tránh sử dụng chung bàn chải đánh răng.
Trước khi trẻ có răng (6 tháng tuổi), nên cho trẻ uống vài muỗng nước ngay sau khi bú (và ợ). Dùng gạc hay vải ướt quấn quanh ngón tay lau sạch và xoa nắn nướu, lưỡi cho trẻ sau khi cho trẻ bú hay ăn.
Sau khi trẻ có răng, nên cho uống vài muỗng nước ngay sau khi bú hay ăn rồi dùng gạc hoặc vải ướt quấn quanh ngón tay lau sạch răng (đừng quên lau mặt trong của răng) và xoa nắn nướu, lưỡi cho trẻ.
 Trẻ 1 tuổi (có 8 răng cửa), cho dùng bàn chải đánh răng có lông mềm với kích thước nhỏ. Với trẻ dưới 3 tuổi, nên cẩn thận khi sử dụng kem đánh răng trẻ em có chứa fluor. Trẻ hơn 3 tuổi có thể sử dụng kem đánh răng trẻ em chứa fluor, với lượng kem phết lên bàn chải độ bằng hạt đậu. Dùng chỉ nha khoa để làm sạch mặt bên trong.

Cách chải răng: Đặt lông bàn chải hướng về phía đường viền nướu một góc 45 độ so với răng, lắc nhẹ bàn chải. Chải từng nhóm răng, mỗi nhóm độ 2-3 cái, chải ba mặt răng: mặt ngoài ( nhìn thấy khi há miệng), mặt trong (phía dưới) và mặt nhai. Cha mẹ cần tiếp tục chải răng cho trẻ đến 9-10 tuổi, vì trẻ không có kỹ năng tự chải răng một cách hiệu quả trước độ tuổi này.
Thường trẻ không thích kem đánh răng. Nhưng bạn đừng lo lắng, vì chính bàn chải (chứ không phải kem) mới làm sạch được các mảng bám trên răng. Nếu trẻ có thể sử dụng kem đánh răng, cha mẹ phải cẩn thận không cho trẻ nuốt kem. Nên sử dụng một lượng rất ít kem đánh răng (chỉ bằng hạt đậu nhỏ, hay phết một lớp thật mỏng trên bàn chải dành cho trẻ em). Kem đánh răng chứa fluor sẽ làm răng thêm rắn chắc.
Nên cho trẻ đến bác sĩ răng hàm mặt lần đầu tiên khi trẻ được 6 tháng tuổi để phát hiện các vấn đề sức khỏe toàn thân có liên quan đến răng miệng; phát hiện các dạng sâu răng đặc biệt do cách cho trẻ ăn (sâu răng do bú bình) và áp dụng kịp thời các biện pháp phòng ngừa sâu răng. Không nên chờ đến khi trẻ có răng sâu hay đau răng mới đến bác sĩ răng hàm mặt.
Các thói quen ảnh hưởng xấu đến sức khỏe răng miệng
Mút ngón tay: Mút ngón tay hay ngậm vú giả kéo dài có thể làm răng trên nhô ra trước. Hãy tập cho trẻ bỏ các thói quen này càng sớm càng tốt (trước khi thay răng cửa vĩnh viễn).

Khen thưởng và quở phạt: Đừng bao giờ sử dụng các thức ăn có chất ngọt như kẹo, chocolate, kem làm phần thưởng cho trẻ khi chúng làm tốt một việc gì, cũng đừng hăm dọa sẽ đưa trẻ đi bác sĩ răng hàm mặt vì trẻ không ngoan.

0 Chăm sóc trẻ chậm nói


Chăm sóc trẻ chậm nói  

Nên trò chuyện thường xuyên với trẻ.

Trẻ 3 tuổi đã có thể giao tiếp tốt bằng ngôn ngữ; ông bà ta có câu: "Thỏ thẻ như trẻ lên ba". Nếu quá tuổi này mà trẻ chưa có khả năng trao đổi những điều thông thường nghĩa là đã bị chậm nói.

Trung bình trẻ 1 tuổi có thể sử dụng được khoảng 10 từ ngữ; lên 1 tuổi rưỡi có khoảng 30-40 từ. Từ 1 tuổi rưỡi tới 2 tuổi, vốn từ của trẻ tăng lên rất nhanh: khoảng 300 từ; từ 2 tuổi đến 2 tuổi rưỡi: trên 500 từ. Cuối năm thứ 3, vốn từ có thể đạt tới 1.200-1.500 và trẻ có thể trao đổi được bằng lời nói những điều thông thường trong sinh hoạt.
Đó là khả năng của những trẻ được phát triển trong "môi trường ngôn ngữ" tốt (cha mẹ chăm trò chuyện với trẻ, gia đình đông anh chị em, được gửi vườn trẻ...). Những trẻ ở vùng cao, vùng sâu, ít được tiếp xúc thì ngôn ngữ thường kém phát triển hơn. Những trẻ đẻ non, còi xương, thể tạng yếu đuối, suy dinh dưỡng... cũng thường chậm nói, đi kèm với chậm mọi phát triển về vận động khác (lẫy, bò, đi...).
Với trẻ chậm nói, cần phân biệt 2 khả năng về ngôn ngữ. Nếu trẻ vẫn hiểu được lời nói (chỉ đúng những gì ta hỏi như "tai đâu, mắt đâu..." và thực hiện đúng những mệnh lệnh giản đơn như lấy mũ, dép) thì đó chỉ là chậm nói đơn thuần. Nếu được giúp đỡ tốt, những trẻ này có thể phát triển lời nói rất nhanh để không bị chậm trễ về mặt ngôn ngữ khi đến tuổi đi học.
Ngược lại, những trẻ bị chậm cả diễn đạt lẫn cảm thụ ngôn ngữ thường có căn nguyên nghe kém hoặc chậm khôn; việc giúp đỡ sẽ khó khăn hơn nhiều. Trẻ nhất thiết phải được thầy thuốc chuyên khoa tai khám, đo sức nghe và đo chỉ số IQ.

Trong quá trình học nói, trẻ cần có sức nghe hoàn hảo để ghi nhận được chính xác các âm thanh của lời nói, có trí tuệ tốt để phân biệt và ghi nhớ mối liên hệ giữa khái niệm và tên gọi của nó. Mặt khác, khả năng phát âm của trẻ còn phụ thuộc vào sự thuần thục dần của hệ thần kinh (lời nói đòi hỏi sự hiệp đồng tinh tế nhiều cơ của bộ máy phát âm và cấu âm), không thể đốt cháy giai đoạn.

Các chỉ số của phát triển ngôn ngữ ở trẻ vào giai đoạn học nói (từ 1 tuổi đến 3 tuổi) phản ánh rất đầy đủ sự phát triển đồng bộ về thể chất và trí tuệ của trẻ trong giai đoạn này. Vì vậy, các bậc cha mẹ cần hết sức quan tâm theo dõi.

0 CÁCH CHĂM SÓC VÀ GIỮ GÌN VỆ SINH RĂNG MIỆNG CHO PHỤ NỮ MANG THAI


Trẻ em là nguồn nhân lực quý giá của tương lai. Một việc rất quan trọng mà cha mẹ có thể làm cho con mình là chuẩn bị và chăm sóc cho trẻ có được sức khỏe răng miệng hoàn hảo.

Cha mẹ có thể giúp cho trẻ giữ răng chắc và khỏe bằng cách tập cho trẻ những thói quen răng miệng lành mạnh ngay từ những năm tháng đầu đời.

Răng sữa đóng vai trò quan trọng trong việc ăn nhai, phát âm và tạo nên vẻ thẩm mỹ cho khuôn mặt trẻ. Đồng thời, cũng đóng vai trò giữ chỗ trên xương hàm cho các răng vĩnh viễn sau này.

CÁCH CHĂM SÓC VÀ GIỮ GÌN VỆ SINH RĂNG MIỆNG CHO PHỤ NỮ MANG THAI

Chế độ dinh dưỡng cân bằng: răng của trẻ bắt đầu hình thành từ tháng thứ 3 đến tháng thứ 6 trong bụng mẹ. Bất kỳ thức ăn gì mẹ ăn vào cũng sẽ ảnh hưởng đến các răng đang trong giai đoạn phát triển này của trẻ. Điều quan trọng là bà mẹ cần ăn một lượng đầy đủ các chất dinh dưỡng, nhất là sinh tố A, C và D, chất đạm, chất khoáng (calci và phospho) để răng của trẻ được cấu tạo bình thường. Tất cả thức ăn nào tốt cho sức khỏe chung đều tốt cho răng. Một chế độ ăn cân bằng thường cung cấp một lượng các chất dinh dưỡng đầy đủ để nuôi mẹ và con. Calci là chất chủ yếu cần thiết cho sự phát triển răng, chứa nhiều trong các loại cá (cả xương), sữa và các sản phẩm từ sữa, rau cải. Bác sĩ răng hàm mặt hoặc bác sỹ y khoa sẽ viết toa, thêm các chất hỗ trợ cho bà mẹ nếu chế độ ăn không cung cấp đầy đủ các chất dinh dưỡng cần thiết.
Chế độ ăn ngọt: Ăn nhiều đồ ngọt, ăn nhiều lần trong ngày và chểnh mảng vệ sinh răng miệng sẽ gây sâu răng. Quan niệm cho rằng răng sẽ sâu thêm hoặc rụng đi sau mỗi lần mang thai là một quan niệm không đúng. Nhiều phụ nữ tin rằng lúc còn ở trong bụng mẹ, trẻ sẽ lấy calci từ răng mẹ để cấu tạo nên xương và răng của mình. Thực ra, chế độ ăn đầy đủ của mẹ sẽ cung cấp nhu cầu calci cho trẻ. Nếu không được cung cấp đầy đủ, trẻ sẽ lấy các chất cần thiết từ xương để cấu tạo răng, chứ không phải từ răng của mẹ. Sau khi trẻ được sinh ra, thói quen ăn ngọt của bà mẹ cũng sẽ tạo cho trẻ thói quen thích vị ngọt (do việc nêm nếm thức ăn).
Viêm nướu do thai nghén: Lượng kích thích tố tăng trong thời gian mang thai sẽ làm tăng quá mức phản ứng của thai phụ đối với các độc tố được tạo ra bởi các vi khuẩn trong mảng bám răng (màng vi khuẩn không thấy được, bám chặt lên bề mặt răng) làm nướu sưng đỏ, nhạy cảm và dễ chảy máu, gọi là tình trạng viêm nướu do thai nghén. Cần loại bỏ mảng bám khỏi bề mặt răng bằng cách chải răng và sử dụng chỉ nha khoa thật cẩn thận. Khám răng định kỳ đều đặn để giúp nướu của các bà mẹ được khỏe mạnh trong lúc mang thai.
Hậu quả của thuốc và các bệnh mắc phải: Thuốc (Tetracyclin) và các bệnh mắc phải trong lúc mang thai (sởi, giang mai...) có ảnh hưởng lên cấu tạo răng của trẻ, như làm thay đổi hình dạng và màu sắc của răng. Tetracyclin có thể làm sậm màu răng của trẻ. Tránh dùng thuốc, chỉ sử dụng khi thật cần thiết và phải có toa của bác sĩ.
Giữ gìn vệ sinh răng miệng: kiểm soát mảng bám răng ở cả cha và mẹ bằng cách chải răng sau mỗi bữa ăn hoặc tối thiểu hai lần một ngày, sử dụng chỉ nha khoa tối thiểu một lần một ngày. Không bắt buộc dùng thuốc súc miệng.
Khám và điều trị răng miệng: Thời gian tốt nhất để thai phụ đi khám và điều trị răng miệng là từ tháng thứ 4 đến tháng thứ 6. Khi khám răng miệng, cần báo cho bác sĩ răng hàm mặt biết là đang mang thai... Điều này sẽ giúp các bác sĩ đưa ra phương pháp điều trị tốt nhất cho bạn và đứa con chưa sinh ra.
CÁCH CHĂM SÓC VÀ GIỮ GÌN VỆ SINH RĂNG MIỆNG CHO TRẺ EM

Hệ răng sữa: Gồm 20 cái, bắt đầu hình thành và cấu tạo từ trong bào thai và tiếp tục phát triển sau khi trẻ sinh ra. Răng sữa đầu tiên mọc lúc 6 tháng tuổi, sau đó trung bình cứ 4 tháng sẽ mọc các răng tiếp theo và trẻ có đủ hệ răng sữa vào lứa tuổi 2-2,5.
Hiện tượng mọc răng: Một số trẻ có thể bị sốt khi mọc chiếc răng đầu tiên, và có thể vẫn tiếp tục sốt mỗi khi mọc thêm các răng khác trong số 20 răng sữa. Trẻ bị bứt rứt khó chịu, dễ kích động khi mọc răng, thường cho ngón tay hay bất kỳ vật gì có trong tay vào miệng để cắn, chảy nhiều nước miếng, khóc hoặc không chịu ăn. Nướu đỏ, có thể sưng, nếu ấn vào có cảm giác cứng và nhọn. Ban đêm không ngủ, nhiễm trùng, phát ban hoặc tiêu chảy. Nên đưa trẻ đi khám bác sĩ nhi khoa khi có các dấu hiệu này.
Làm dịu cho trẻ tạm thời bằng cách cho một vật nhẹ, mềm để trẻ cắn lên (như vòng mọc răng, núm vú cao su hay bàn chải đánh răng). Nên cho trẻ ăn các thức ăn mềm, xốp. Nếu trẻ đau nhiều, nên cho uống Paracetamol để giảm đau.
Nang hoặc bướu máu do mọc răng: Khi răng bắt đầu mọc, mô nướu sẽ tách ra và bị kéo lại. Đôi khi, có một ít máu chảy vào trong các mô, tạo nên một chỗ phồng lên hay bị bầm nhỏ trên nướu, gọi là nang hoặc bướu máu do mọc răng. Thường không cần điều trị vì khi răng mọc lên sẽ khỏi. Không nên cắt hay chọc các nang hoặc bướu này vì có thể gây nhiễm trùng. Đưa trẻ đi khám nếu răng không mọc trong vòng 1 tháng.
Mút ngón tay: Bú là phản xạ bình thường của trẻ, giúp cơ và xương hàm phát triển. Khi còn bé, trẻ thường đưa vào miệng tất cả những vật gì có trong tay, kể cả các ngón tay để mút. Thói quen mút các vật của trẻ sẽ biến mất khi trẻ đến tuổi đi học. Nếu trẻ vẫn tiếp tục mút ngón tay sau khi răng cửa vĩnh viễn mọc lên (7-8 tuổi) có thể sẽ gây ra những vấn đề về thẩm mỹ cần can thiệp chỉnh hình (như hô răng cửa trên, lùi răng cửa dưới...).
Núm vú giả: Núm vú giả cũng có thể gây ra những vấn đề như mút ngón tay nếu trẻ bú trong thời gian dài. Thường trẻ có khuynh hướng thích núm vú giả làm từ silicone. Nên kiểm soát núm vú giả thường xuyên và vứt bỏ nếu có dấu hiệu mòn, rạn nứt hay rách. Không nhúng các đầu núm vú vào đồ ngọt như mật ong, mứt... vì có thể dẫn đến đa sâu răng, cũng không nhúng vào đồ mặn vì có thể khiến thận trẻ phải làm việc quá sức.
Thức ăn cho trẻ: Thức ăn bao gồm sữa, ngũ cốc và nước trái cây là đã đủ cho trẻ, không nên thêm đường hay mật vào. Do nhu cầu năng lượng gia tăng của cơ thể, ngoài ba bữa ăn chính, có thể cho trẻ ăn thêm ba bữa phụ. Tránh không cho trẻ ăn vặt cả ngày, nhất là các thức ăn - nước uống chứa nhiều đường dễ dính vào răng (như bánh ngọt, kẹo...).
Sâu răng do cách nuôi trẻ (do bú bình): Sâu răng trầm trọng có thể xảy ra ở trẻ bú bình (sữa hay các chất ngọt khác) thường xuyên, nhất là trước và trong khi ngủ. Khi ngủ, sự tiết nước bọt giảm, vì vậy tác dụng chải rửa trên răng và niêm mạc miệng cũng giảm. Sữa còn đọng lại trong miệng sẽ bị các vi khuẩn làm lên men, biến đổi thành acid lactic gây sâu răng. Không để trẻ ngậm bình hay vú mẹ trong lúc ngủ. Nếu trẻ phải bú mới ngủ, nên cho trẻ bú nước lã và lấy bình ra khi trẻ đã ngủ.
Khuyến khích việc cho trẻ bú mẹ, tuy nhiên nếu tiếp tục cho trẻ bú mẹ sau 1 tuổi (nhất là trẻ ngậm vú mẹ mỗi khi đòi hỏi, để ru ngủ và trong khi ngủ) sẽ gây ra dạng sâu răng trầm trọng như bú bình.
Thuốc: Để tạo hương vị dễ chịu cho trẻ em, nhiều loại thuốc có chứa lượng đường cao. Nếu sử dụng thường xuyên và lâu dài các loại thuốc này (như khi trẻ bị suyễn), nhất là trước khi ngủ, có thể sẽ gây sâu răng. Khi trẻ phải dùng thuốc trong thời gian dài, nếu có thể, nên yêu cầu bác sĩ cho toa các loại thuốc không chứa đường. Làm sạch răng trẻ sau khi sử dụng thuốc và trước khi ngủ.
Tránh sử dụng Tetracyclin: Không cho trẻ dưới 10 tuổi sử dụng bất kỳ loại Tetracyclin nào vì sẽ làm sậm màu răng vĩnh viễn của trẻ.

0 Những cách chăm sóc răng miệng nơi công sở


Chải răng là phương pháp cơ bản thiết yếu để loại bỏ những mảng bám răng. Tuy nhiên, không phải ai cũng áp dụng phương pháp này hiệu quả chẳng hạn như đánh răng chưa đúng cách, chỉ làm sạch bề mặt răng không tiếp cận các vùng kẽ răng, cổ răng hoặc răng số 8…

Nếu như mỗi người đều giữ gìn vệ sinh răng miệng đúng cách, thường xuyên và kỹ lưỡng thì giảm đến 80% nguy cơ mắc bệnh sâu răng”. Đó là khẳng định của TS. BS Ngô Đồng Khanh, Chủ tịch Hội Răng Hàm Mặt TPHCM trước tình hình ý thức chăm sóc răng miệng của người dân Việt Nam chưa cao dẫn đến 90% dân số mắc bệnh răng miệng*. Đối với giới công sở, các chuyên gia cho biết, cần tích cực và chủ động hơn về vấn đề này bởi lẽ thời gian đi làm hầu như chiếm một nửa thời gian trong ngày, và không nên đợi về nhà mới nghĩ đến chuyện chải răng, chăm sóc răng miệng.
 
Người bạn thân thiết”: Kem đánh răng + Bàn chải
Sau khi dùng bữa trưa ở công ty thì mình chỉ súc miệng với nước”. Bạn Minh Đăng (nhân viên kế toán) nói về thói quen chăm sóc răng miệng tại văn phòng. Không chỉ riêng bạn Minh Đăng mà còn nhiều bạn khác vẫn chưa xem việc chăm sóc răng miệng ở nơi công sở là điều quan trọng. Bạn có biết, chỉ cần 15 phút sau khi ăn, nếu các thức ăn thừa không được tẩy sạch thì màng bám đã hình thành trên bề mặt răng và là nguyên nhân dẫn đến bệnh răng miệng. Do đó, đem theo “người bạn thân thiết” kem đánh răng và bàn chải đánh răng đến nơi làm việc sẽ giúp bạn chăm sóc răng miệng hiệu quả sau ngay sau mỗi bữa ăn.
 
2. Vệ sinh răng miệng bổ túc:
Chải răng là phương pháp cơ bản thiết yếu để loại bỏ những mảng bám răng. Tuy nhiên, không phải ai cũng áp dụng phương pháp này hiệu quả chẳng hạn như đánh răng chưa đúng cách, chỉ làm sạch bề mặt răng không tiếp cận các vùng kẽ răng, cổ răng hoặc răng số 8… Do đó, các bạn cần nhờ đến những biện pháp vệ sinh răng miệng bổ túc, tức là sử dụng thêm nhiều biện pháp hỗ trợ song song với việc chải răng để giúp loại bỏ mảng bám răng một cách hữu hiệu, ví dụ như sử dụng chỉ tơ nha khoa làm sạch vùng kẽ răng. TS-BS Ngô Đồng Khanh khuyến khích: “Chỉ nha khoa có nhiều kích cỡ, có sáp làm sạch răng nhưng không làm trầy xước nướu, gây viêm nhiễm.”
 
3. Bàn chải “di động”:
Bạn Hoài Thanh (nhân viên bán hàng) chia sẻ về tình hình chăm sóc răng miệng hiện nay của giới công sở: “Có hai trường hợp, đó là chăm sóc răng miệng chưa đúng cách hoặc đã biết cách chăm sóc răng miệng nhưng không có thời gian”. Đối với những bạn quá bận rộn, công việc đòi hỏi phải thường xuyên di chuyển hoặc những bạn có thói quen ăn vặt như là một cách thư giãn thì khó có thể đánh răng ngay sau khi ăn. Vì vậy, cho dù là một bữa cà phê, một bữa ăn gặp gỡ khách hàng, một bữa tiệc…các bạn hãy sử kẹo sing-gum không đường như chiếc “bàn chải di động” giúp làm sạch răng hiệu quả. Là một trong 4 bước chăm sóc răng miệng được Hội Răng Hàm Mặt TpHCM khuyên dùng, kẹo sing-gum Extra Professional không đường với các hạt nhỏ li ti giúp bạn cảm nhận răng sạch ngay tức thì. Do đó, nhai kẹo sing-gum Extra Professional ngay sau khi ăn đem đến cho bạn phong cách chăm sóc răng miệng thật chuyên nghiệp và hiện đại.
 
Bạn có thể tìm thấy Extra Professional tại các hiệu thuốc tây và siêu thị.
 
 
(*) Theo công bố tại hội nghị Khoa học Quốc gia ngành Răng hàm Mặt và Triển lãm Nha khoa Quốc tế lần thứ 4 (tháng 7/2011).  
4 thói quen chăm sóc răng miệng được Hội Răng Hàm Mặt TpHCM khuyên dùng:
 
1. Làm vệ sinh răng 2 lần mỗi ngày bằng bàn chải và chỉ nha khoa
 
2. Đến phòng khám để kiểm tra răng định kỳ, ít nhất 2 lần trong năm
 
3. Hạn chế tiêu thụ thức ăn chứa nhiều đường
 
4. Dùng sing-gum Extra Professional ngay sau khi ăn như một giải pháp chăm sóc răng miệng vừa hiệu quả vừa tiện lợi

0 Chăm sóc răng miệng thế nào là đúng?


Một hàm răng trắng đẹp phải hội đủ các yếu tố: hình dáng răng đều đặn, không dị dạng, kích thước răng tỷ lệ hài hòa với chiều dài cung hàm, màu sắc trắng bóng, hàm răng đều, đẹp một phần do yếu tố di truyền, nhưng hầu hết những người có răng lợi tốt là do vệ sinh răng miệng thường xuyên. Ngược lại đa số những người răng bị hỏng là do ăn quá nhiều đường, nhất là khi còn nhỏ.
Nên chải răng theo chiều dọc.
Chăm sóc sức khỏe răng miệng cũng như việc điều trị bệnh răng miệng phải nhằm bảo đảm ba yêu cầu: chức năng, thẩm mỹ, dự phòng. Ba yêu cầu phải hài hòa và bổ sung cho nhau, nhưng yêu cầu chức năng là quan trọng nhất. Không nên vì muốn chỉnh hình vị trí một răng đẹp, trám thẩm mỹ một răng đẹp mà quên đi khớp cắn hai hàm, tình trạng mô nha chu... mà làm mất chức năng của răng.
Làm thế nào để có hàm răng khỏe đẹp?
Để có hàm răng khỏe đẹp, cần chải răng thường xuyên, đúng cách, đều đặn hằng ngày. Chải răng ít nhất 2 lần/ngày vào buổi sáng và trước khi đi ngủ; Hoặc tốt nhất là chải răng buổi sáng lúc thức dậy, sau các bữa ăn và trước khi đi ngủ. Khi chải răng là làm sạch răng không để thức ăn bám vào răng tạo nên vôi răng. Ngoài bàn chải răng thông thường, nên sử dụng thêm các phương tiện hỗ trợ như bàn chải kẽ răng, tăm nước, các thuốc súc miệng tạo bọt để đẩy thức ăn ra ngoài và giảm sưng lợi. Dùng kem đánh răng có fluor giúp ngăn ngừa sâu răng rất hiệu quả. Dùng chỉ nha khoa để lấy các mảng bám thức ăn giữa các kẽ răng mà bàn chải không thể làm sạch được.
Bạn đã đánh răng đúng cách chưa?
Đánh răng, chải răng có thể làm mất đi những bựa thức ăn bám quanh răng và các loại vi khuẩn làm ổ gây sâu răng, làm cho hơi thở không có mùi. Đánh răng đúng cách như sau: chải mỗi vị trí từ 5 lần trở lên; hay chải mỗi mặt răng là 30 giây (mặt ngoài, mặt trong, mặt nhai và mặt bên). Cách chải mặt ngoài và mặt nhai: đặt bàn chải nghiêng một góc 45 độ với hàm răng, chải theo chiều từ chân răng đến mặt nhai với động tác tới lui nhẹ nhàng. Tránh chải răng theo chiều ngang vì nó sẽ làm mòn chân răng. Chải cẩn thận mỗi vùng 2-3 răng và tuần tự như thế cho sạch tất cả các răng. Đối với mặt trong: đặt lông bàn chải theo chiều thẳng đứng và dùng đầu bàn chải nhẹ nhàng chải từ trên xuống dưới. Làm sạch lưỡi bằng cách dùng bàn chải cạo, hoặc cạo lưỡi bằng que cạo lưỡi. Nên tránh đánh răng quá nhiều, quá nhanh, quá mạnh làm chảy máu lợi và nướu răng. Khi dùng bàn chải tự động phải sạch kỹ từng răng, vòng theo độ cong của nướu răng và hình dáng của răng để lấy hết các mảng bám trên răng, giữ đầu lông bàn chải ở từng răng trong vài giây để chải sạch rồi mới di chuyển qua răng kế tiếp. Mặc dù đã chải răng vẫn phải dùng chỉ nha khoa để làm sạch mảng bám ở cổ răng, kẽ răng, vì vẫn còn 40% diện tích răng bàn chải chưa làm sạch được.
Cách dùng chỉ nha khoa thế nào?
Rau quả - Thực phẩm tốt cho răng miệng.
Dùng một đoạn dài khoảng 50cm và quấn 2 đầu sợi chỉ vào 2 ngón giữa, chừa lại 1 đoạn giữa khoảng 5cm; ngón trỏ và ngón cái giữ căng sợi chỉ, nhẹ nhàng đưa sợi chỉ vào kẽ răng sao cho đoạn chỉ len sát mặt bên của răng, không ấn quá sâu, không kéo sợi chỉ qua lại sẽ làm tổn thương nướu, kéo sợi chỉ quanh mỗi răng theo hình chữ C và nhẹ nhàng di chuyển lên xuống ở mặt bên mỗi răng. Thay sợi chỉ khác khi chuyển qua làm sạch răng kế tiếp.
Ăn uống thế nào để có hàm răng khỏe, đẹp?
Hạn chế ăn thức ăn ngọt như bánh kẹo, nước đường; nên ăn các loại rau, củ, trái cây tươi; không nên hút thuốc lá; khi không có điều kiện đánh răng sau khi ăn thì có thể thay thế bằng cách nhai kẹo cao su không đường, vì nhai kẹo cao su giúp miệng tiết nước bọt, hạn chế các mảng bám trên răng. Thực hiện việc khám răng định kỳ 6 tháng một lần, để được phát hiện và điều trị sớm các bệnh răng miệng.
Một số thức ăn có liên hệ với các vi khuẩn gây sâu răng. Mặc dù chế độ dinh dưỡng kém không trực tiếp gây bệnh răng miệng, nhưng bệnh răng miệng sẽ tiến triển nhanh hơn và nặng hơn ở những bệnh nhân có chế độ dinh dưỡng thiếu thốn. Dinh dưỡng kém giảm sức đề kháng dễ bị sâu răng hơn. Vì vậy, việc ăn thức ăn đa dạng, chế độ ăn cân bằng không những cải thiện sức khỏe răng miệng mà còn giảm nguy cơ mắc các bệnh khác. Nên ăn những thức ăn: trái cây, rau quả, bánh mì, ngũ cốc, sữa và các sản phẩm từ sữa, thịt, cá, các loại đậu... Tránh những chế độ ăn mất cân đối làm khiếm khuyết vitamin và muối khoáng. Tránh khô miệng bằng cách uống nhiều nước. Nước bọt sẽ bảo vệ cả  mô mềm và mô cứng trong miệng. Khi ăn vặt nên hạn chế những thức ăn dính, ngọt, dẻo... vì chúng dễ gây sâu răng. Thay vào đó hãy chọn những thức ăn có lợi cho răng như: các hạt, rau tươi, sữa chua; những loại nước có gas có chứa nhiều đường sẽ làm mòn răng, đặc biệt là acid trong các loại nước quả sẽ vô hiệu hóa men răng, giúp vi khuẩn gây viêm, nhất là khi dùng đồ uống có quá nhiều đường và uống vào buổi tối trước khi đi ngủ.

Chủ Nhật, 17 tháng 2, 2013

0 Sức khỏe răng miệng cho người cao tuổi


Sức khỏe răng miệng rất quan trọng đối với người cao tuổi vì họ thường dễ mắc các bệnh ảnh hưởng đến vùng miệng
Tỉ lệ người cao tuổi trên toàn cầu đang ngày càng tăng. Hiện nay bệnh mãn tính và các bệnh về răng miệng đang nhanh chóng trở thành những nguyên nhân hàng đầu dẫn đến khuyết tật và tử vong ở người cao tuổi. Các vấn đề sức khỏe răng miệng nổi bật, đáng chú ý ở người cao tuổi là: mất răng, kinh nghiệm chăm sóc răng miệng, bệnh về lợi răng, chứng khô miệng, bệnh lý tiền ung thư và ung thư răng miệng.
Sức khỏe răng miệng rất quan trọng đối với người cao tuổi vì họ thường dễ mắc các bệnh ảnh hưởng đến vùng miệng và lúc đó thì những tổn thương vùng miệng lại tác động ngược lại đến dinh dưỡng, sức đề kháng và chất lượng cuộc sống. Tuổi càng cao thì sự lão hóa răng miệng cũng càng tiến triển nhưng không phải là yếu tố ảnh hưởng chính trên sức khỏe răng miệng.
Trong khi đó, các bệnh: sâu răng, nha chu, bệnh niêm mạc miệng, rối loạn tiết nước bọt, tiêu xương ổ, các bệnh toàn thân như tiểu đường, tai biến mạch máu não, Alzheimer, các loại thuốc uống thường xuyên, xạ trị vùng đầu cổ do ung thư... mới là những yếu tố chính làm tổn thương răng miệng ở người cao tuổi. Trái lại, tổn thương răng miệng có thể tạo điều kiện thuận lợi cho mầm bệnh xâm nhập vào máu hay cơ quan hô hấp gây bệnh nặng nguy hiểm đến tính mạng.
Ảnh hưởng không tốt của tình trạng sức khỏe răng miệng kém lên chất lượng cuộc sống người cao tuổi là một vấn đề sức khỏe cộng đồng hết sức quan trọng mà các nhà chính sách cần quan tâm đến. Vì thế Tổ chức sức khỏe thế giới đã có khuyến cáo các nước áp dụng các chiến lược thích hợp để cải thiện sức khỏe răng miệng cho người cao tuổi trong đất nước mình.

0 Lão hóa răng miệng ở người cao tuổi


Ở người cao tuổi (NCT), bệnh lý toàn thân xuất hiện ngày càng nhiều ảnh hưởng đến răng miệng và ngược lại, những suy thoái ở răng miệng cũng tác động đến sức khỏe toàn thân.
Sức khỏe răng miệng rất quan trọng đối với NCT vì họ thường dễ mắc các bệnh ảnh hưởng đến vùng miệng và lúc đó thì những tổn thương vùng miệng lại tác động ngược lại đến dinh dưỡng, sức đề kháng và chất lượng cuộc sống. Tuổi càng cao thì sự lão hóa răng miệng cũng càng tiến triển nhưng không phải là yếu tố ảnh hưởng chính trên sức khỏe răng miệng. Trong khi đó, các bệnh: sâu răng, nha chu, bệnh niêm mạc miệng, rối loạn tiết nước bọt, tiêu xương ổ, các bệnh toàn thân như tiểu đường, tai biến mạch máu não, Alzheimer, các loại thuốc uống thường xuyên, xạ trị vùng đầu cổ do ung thư... mới là những yếu tố chính làm tổn thương răng miệng ở NCT. Trái lại, tổn thương răng miệng có thể tạo điều kiện thuận lợi cho mầm bệnh xâm nhập vào máu hay cơ quan hô hấp gây bệnh nặng nguy hiểm đến tính mạng.
 Chăm sóc răng miệng lúc trẻ là bảo đảm tốt nhất để có sức khỏe răng miệng tốt lúc tuổi già.
Lão hóa răng
Quá trình lão hóa gây những biến đổi ở răng gồm: mòn mặt nhai, tuỷ răng bị xơ teo, giảm mật độ tế bào, tạo ngà thứ cấp, ngà dần bị mất nước, răng giòn dễ mẻ, dễ bị gãy, tăng tạo xê-măng ở chân răng, tụt nướu, giảm tiết nước bọt, chức năng nhai giảm sút... Một số người có nhiều răng mang miếng trám lớn nên cũng dễ bị sâu tái phát. NCT vẫn bị sâu răng mới, tái phát ở thân răng và dễ bị sâu ở chân răng. Các biện pháp vệ sinh răng miệng đều kém hiệu quả.
Việc điều trị các bệnh răng cho NCT cần phải dùng vật liệu phóng thích fluor (F) như xê-măng galss ionomer, phòng bệnh bằng F tại chỗ khi thấy có nguy cơ sâu răng tiến triển do giảm tiết nước bọt. Nên khám định kỳ, thực hiện chế độ theo dõi tình trạng răng miệng thường xuyên. Những người bị hạn chế về trí tuệ, vận động nặng cần sự hỗ trợ của người thân hay nhân viên y tế cộng đồng để thực hiện vệ sinh răng miệng hằng ngày.
Thoái hóa niêm mạc miệng
Biểu mô niêm mạc miệng là biểu mô lát tầng, nó bị teo mỏng dần, mất tính đàn hồi khi tuổi ngày càng cao. Do khả năng miễn dịch suy giảm nên niêm mạc miệng dễ bị chấn thương và dễ nhiễm khuẩn. Ở NCT, những biến đổi tại chỗ do bệnh toàn thân và thuốc làm cho niêm mạc miệng dễ bị một số tổn thương dạng bóng nước, loét, liken, nhiễm khuẩn và ung thư. Một nghiên cứu cho thấy 90% ung thư miệng xảy ra ở người trên 50 tuổi, vì vậy cần khám định kỳ để phát hiện và điều trị sớm ung thư miệng ở NCT.
Suy giảm nước bọt
Nhiều NCT hay than phiền về khô miệng. Những bệnh toàn thân, các thuốc chữa bệnh và xạ trị là nguyên nhân chủ yếu gây khô miệng. Có hàng trăm thứ thuốc như thuốc chống trầm cảm, an thần, chống Parkinson... có tác dụng phụ làm giảm tiết nước bọt. Một số bệnh có thể gây khô miệng như: bệnh Sjogren, bệnh tự miễn, Alzheimer... Khô miệng có thể gây nhiều tổn thương ở miệng và hầu như: khô niêm mạc và dễ trầy sướt, giảm khả năng chống nhiễm khuẩn, giảm sự bôi trơn, tăng nguy cơ viêm nướu, nhiễm nấm, đau, khó ăn, khó nuốt, giảm vị giác... Để làm giảm khô miệng, cần áp dụng các biện pháp: thay thế thuốc có tác dụng phụ gây khô miệng, dùng nước bọt nhân tạo; kích thích tuyến nước bọt bằng vị giác; thực hiện chế độ ăn uống phù hợp; vệ sinh răng miệng tốt...
Rối loạn vận động và suy yếu vị giác
NCT thường bị rối loạn phản xạ nuốt và tư thế cơ miệng. Khả năng nhai và nuốt ở NCT dù còn đủ răng vẫn kém hiệu quả hơn ở người trẻ. Những bệnh toàn thân như tai biến mạch máu não, Parkinson hoặc dùng một số thuốc như phenothiazine dễ gây sặc hay hít thức ăn vào đường thở. Bệnh thoái hoá khớp có thể ảnh hưởng trên khớp thái dương hàm cũng ảnh hưởng đến khả năng nhai.
Do suy giảm vị giác nên nhiều NCT than phiền là ăn không biết ngon, khó cảm nhận được mùi và vị của thức ăn. Một số nghiên cứu cho thấy: mùi ít bị ảnh hưởng do tuổi còn vị giác lại giảm dần khi tuổi tăng lên. Do không cảm nhận được mùi vị thức ăn, giảm sút về vận động các cơ vùng miệng, giảm tiết nước bọt dễ làm cho NCT chán ăn dẫn đến bị suy dinh dưỡng, mất nước và bị giảm chất lượng cuộc sống.
Như vậy, sự lão hóa răng miệng ngày càng nặng khi tuổi càng cao, đồng thời là hậu quả của các bệnh tại chỗ và toàn thân. Vì vậy, sự chăm sóc răng miệng lúc trẻ là bảo đảm tốt nhất để có sức khỏe răng miệng tốt lúc tuổi già.

0 Những vấn đề răng miệng ở người cao tuổi


Mở đầu:
Tuy tỉ lệ người cao tuổi ở Việt nam chưa cao như ở các nước phát triển, nhưng dân số trên 65 tuổi hiện nay đã vượt quá 5% tổng dân số và sẽ còn tăng hơn nữa với sự tăng tuổi thọ trung bình (hiện nay là 66 tuổi  cho nam và 68 tuổi cho nữ, là tuổi tương đối cao so với các nước đang phát triển ).
Tích tuổi và các bệnh toàn thân xuất hiện với tuổi già cùng với việc điều trị các bệnh này chắc chắn ảnh hưởng đến chức năng vùng miệng và điều trị răng miệng và ngược lại những biến đổi suy thoái ở vùng miệng và các chức năng miệng cũng sẽ tác động không ít trên sức khỏe toàn thân và chất lượng cuộc sống ở người cao tuổi.Ở các nước trên thế giới, chuyên ngành Lão nha là một chuyên ngành Răng Hàm Mặt (RHM) ngày càng được quan tâm nhiều hơn.

Sức khỏe răng miệng ở người cao tuổi
Sức khỏe răng miệng đặc biệt quan trọng đối với người cao tuổi vì họ thường dễ mắc các bệnh hệ thống có ảnh hưởng đến vùng miệng và lúc đó thì những tổn thương vùng miệng lại tác động ngược lại một cách trực tiếp hay gián tiếp trên tình trạng dinh dưỡng giao tiếp, khả năng đề kháng và chất lượng cuộc sống nói chung.
Tuổi không phải là yếu tố ảnh hưởng chính trên sức khỏe răng miệng. Các bệnh răng miệng (sâu răng, bệnh nha chu, bệnh niêm mạc miệng, rối loạn tiết nước bọt, tiêu xương ổ), các bệnh toàn thân (tiểu đường, tai biến mạch máu não, Alzheimer), những thuốc uống thường xuyên, xạ trị vùng đầu cổ do ung thư, mới chính là những yếu tố làm cho những người cao tuổi dễ bị những xáo trộn vùng miệng và hầu. Ngược lại hậu quả của các bệnh răng miệng không chỉ giới hạn ở vùng miệng mà có thể đưa các mầm vào dòng máu hay vào hệ hô hấp có thề gây hậu quả nghiêm trọng đến tíng mạng. Các bệnh ngoài da gây bóng nước trong miệng có thể làm cho bệnh nhân dễ mắc những bệnh ở vùng miệng hầu.
Ngày nay do người cao tuổi còn giữ được răng thật lâu hơn ngày xưa nên dễ bị những bệnh toàn thân  do nhiễm trùng răng hơn. Ngoài ra do họ chú ý nhiều hơn đến sức khỏe răng miệng nên nhu cầu răng miệng cũng cao hơn.
Biến đổi ở răng
Những biến đổi ở răng bao gồm: mòn mặt nhai, tuỷ bị xơ teo, giảm mật độ tế bào, tạo ngà thứ cấp, ngà ngạnh hóa dần bị mất nước, răng dòn dễ mẻ dễ bị gãy. Có sự tăng tạo xê măng ở chân . Người cao tuổi vẫn bị sâu mới và tái phát ở thân răng nhưng dễ bị sâu hơn ở chân răng. Tụt nướu, giảm tiết nước bọt, biện pháp vệ sinh bớt hiệu quả, chức năng nhai giảm sút, đó là những lý do làm cho dễ bị sâu chân răng. Do còn nhiều răng mang miếng trám lớn nên cũng dễ bị sâu tái phát.
Để chữa răng cho người cao tuổi nên sử dụng vật liệu phóng thích Fluor(F) như xi măng galss ionomer. Nên có chế độ theo dõi tình trạng răng miệng thường kỳ, can thiệp phòng bệnh bằng F tại chổ khi thấy có nguy cơ sâu răng tăng do giảm tiết nước bọt . Những người bị hạn chế về tri thức hay vận động trầm trọng cần sự hỗ trợ để thực hiện vệ sinh răng miệng hằng ngày.
Bệnh nha chu
Tụt nướu , mất bám dính và tiêu xương gần như khó tránh khỏi người cao tuổi. Tuy nhiên quá trình tích tuổi không phải là nguyên nhân duy nhất đưa đến tình trạng mất răng. Nhiều yếu tố vùng miệng và bệnh toàn thân cũng như những loại thuốc thường được ghi toa cho người cao tuổi có thể ảnh hưởng xấu đến mô nha chu, chẳng hạn như bệnh tiểu đường, các thuốc chống cao huyết áp loại ức chế kênh Ca, thuốc chống co giật, cyelosporin…
Ngược lại bệnh nha chu cũng ảnh hưởng trên sức khỏe răng miệng và sức khỏe toàn thân của người cao tuổi. Bệnh nha chu là nguyên nhân gây hôi miệng, làm răng lung lay, mất răng và do đó ảnh hưởng đến chức năng nhai, nuốt, nếm và dinh dưỡng. Bệnh nha chu có thể ảnh hưởng đến bệnh tim mạch, nội tiết, hô hấp và bệnh nhiễm khuẩn. Bệnh nha chu ở người cao tuổi có thể điều trị và có khả năng lành bệnh, tuy có hơi chậm hơn ở người trẻ, nếu điều trị thích hợp và có biện pháp giữ gìn vệ sinh răng miệng tốt. Ở bệnh nhân cao tuổi nên dùng biện pháp điều trị nha chu bảo tồn và thuốc kháng sinh.
Niêm mạc miệng
Niêm mạc miệng có những biến đổi do tích tuổi và do những bệnh miệng. Biểu mô niêm mạc miệng, là biểu mô lát tầng, teo mỏng dần với tuổi, mất tính đàn hồi, đồng thời do đáp ứng miễn dịch giảm nên dễ bị chấn thương và dễ nhiễm trùng...
Ở người cao tuổi, những biến đổi tại chổ, do bệnh toàn thân và thuồc làm cho niêm mạc miệng dễ bị một số thương dạng bóng nước, loét, liken, nhiễm khuẩn và ung thư 90% ung thư miệng xảy ra ở người trên 50 tuổi, do đó cần khám định kỳ để phát hiện và điều trị sớmung thư miệng.
Tuyến nước bọt
Nhũng nghiên cứu gần đây cho thấy là ở người cao tuổi khỏe mạnh, tổng lưu lượng nước bọt không giảm. Tuy nhiên rất nhiều người cao tuổi than phiền về khô miệng.Các bệnh toàn thân, thuốc và xạ trị là nguyên nhân chính gây khô miệng. Hơn 400 thứ thuốc có tác dụng phụ làm giảm tiết nước bọt (chống trầm cảm ,an thần, chống Parkinson ). Một số bệnh như bệnh Sjogren, bệnh tự miễn, Alzheimer có thể gây khô miệng. Khô miệng gây nhiều vấn đề ở miệng và hầu ở người cao tuổi :niêm mạc khô và dễ trầy sướt, giảm khả năng chống nhiễm khuẩn, giảm sự bôi trơn, tăng nguy cơ viêm nướu, nhiễm nấm, đau, khó ăn, khó nuốt, nếm, khó lưu hàm giả tháo lắp. Do đó cần chẩn đoán và hạn chế hậu quả của khô miệng. Để làm giảm khô miệng, cần thay thế thuốc có tác dụng phụ gây khô miệng, dùng nước bọt nhân tạo. Thực hiện các biện phápvệ sinh răng miệng tốt, kích thích tuyến nước bọt bằng vị giác, nhờ nhai và dùng thuốc, thực hiện chế độ ăn và uống phù hợp là những biện pháp lâu dài để chống khô miệng ở người cao tuổi.
Chức năng vận động và cảm giác vùng miệng
      Xáo trộn chức năng, nuốt và tư thế cơ miệng thường xảy ra với tuổi . Nhai và nuốt ở người cao tuổi, ngay cả ở những người  còn đủ răng, kém hiệu quả hơn ở người trẻ. Tuy nhiên điều này sẽ không gây khó khăn trừ khi có thêm những bệnh toàn thân (tai biến mạch máu não, Parkinson) hay có dùng thuốc (loạn vận động do phenothiazine) làm cho dễ bị sặc hay hít vào đường thở. Bệnh thoái hoá khớp (osteo-arthritis) có thể ảnh hưởng trên khớp TDH nhưng nói chung người cao tuổi ít than phiền về loạn năng bộ máy nhai hơn người trẻ.
      Nhiều người cao tuổi than là ăn không biết ngon, khó cảm nhận được mùi và vị. Những nghiên cứu gần đây cho thấy nếu mùi ít bị ảnh hưởng do tuổi thì vị giác lại giảm dần theo sự tích tuổi. Không cảm nhận được mùi vị, giảm sút về vận động, giảm tiết nước bọt dễ làm cho người cao tuổi chán ăn, bị suy dinh dưỡng, mất nước và bị giảm chất lượng cuộc sống .
Kết luận
      Những biến đổi suy thoái ở vùng miệng không phải chỉ do qúa trình tích tuổi mà phản ảnh những tình trạng bệnh tại chỗ đã có từ trước, đang có và tình trạng toàn thân cũng như các phương thức điều trị . Do đó chăm sóc răng miệng lúc trẻ là đảm bảo tốt nhất để có sức khỏe răng miệng tốt lúc cao tuổi “Ngày mai bắt đầu từ hôm nay’’. (Lavker, 1997 )
 

Niền răng Copyright © 2011 - |- Powered by TienHip.